Đức Giêsu Kitô – Đấng Trung Gian và là Ơn Cứu Độ Duy Nhất của Nhân Loại
Jesus Christ – The Mediator and The Sole Savior of Humanity
DOI:
https://doi.org/10.54855/csl.23342Từ khóa:
ơn cứu độ, ân sủng, Thánh Linh thông banTóm tắt
Tính cách phổ quát của ơn cứu độ có nghĩa là ơn cứu độ không phải chỉ được ban cho những ai tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô và đã gia nhập Giáo Hội. Vì được ban cho tất cả mọi người, ơn cứu độ phải thuận lợi một cách cụ thể đối với mọi người. Thế nhưng, thực tế cho thấy, hôm nay đây, cũng như trong quá khứ, nhiều người không có cơ hội biết đến hay chấp nhận mạc khải Phúc Âm hoặc gia nhập Giáo Hội. Những điều kiện về xã hội và văn hóa họ sống không cho phép họ thực hiện được điều này, và họ thường được dưỡng dục theo các truyền thống tôn giáo khác. Đối với những người như vậy, mặc dù họ có liên hệ một cách mầu nhiệm nào đó với Giáo Hội, ơn cứu độ nơi Chúa Kitô bởi ân sủng cũng không làm cho họ chính thức trở thành phần tử của Giáo Hội, song chỉ soi sáng cho họ bằng một đường lối hợp với tình trạng tinh thần và thể chất của họ mà thôi. Ân sủng này là do Chúa Kitô ban cho; ân sủng ấy là hoa trái của việc Người hiến tế và được Thánh Linh thông ban cho. Ân sủng ấy giúp cho mỗi người đạt đến ơn cứu độ bằng việc tự do cộng tác của họ.
Abstract
The universal nature of salvation means that it is not only bestowed upon those who profess faith in Jesus Christ and have joined the Church. Because it is given to all people, salvation must be accessible in a specific way to everyone. However, the reality is that today, as well as in the past, many people do not have the opportunity to know or accept the proclamation of the Gospel or join the Church. The social and cultural conditions in which they live do not allow them to do so, and they are often nurtured in other religious traditions. For people like them, even though they may have some kind of mystical connection to the Church, salvation in Christ through grace does not formally make them members of the Church. It merely illuminates their path in accordance with their spiritual and physical condition. This grace is bestowed by Christ; it is the fruit of His sacrifice and is granted through the Holy Spirit. This grace helps each person attain salvation through their free cooperation.Tài liệu tham khảo
X. Tông thư Misericordia et misera (20-11-2016), số 20.
Tôma Aquinô, Quaestio de veritate, q. 29, a. 5, co.
Thông điệp Deus caritas est, số 1
Joseph Ratzinger, Đức Tin Kitô Giáo Hôm Qua Và Hôm Nay, bản dịch Việt ngữ của Lm. Athanasiô Nguyễn Quốc Lâm và Nguyễn Hồng Lam, Nxb. Tôn Giáo, 2000, tr. 238.
Đường Thi, Thiên Chúa Giáo Và Tam Giáo, (Tủ Sách Đàm Đạo Tôn Giáo, 2000), 160.
Thiện Cẩm, Khi Trẻ Thơ Im Tiếng, (1996), 165.
J. Dheilly, Từ Điển Kinh Thánh, Tập I (Hà Nội: NXB: Tôn Giáo, 1993), 342-344
Paul Hitz, Echternach, Luxembourg, Đức Giêsu Kitô Vị Cứu Chúa Của Ta,
Lm. Phêrô Nguyễn Đức Mầu CSsR, Chuyển Dịch (1960), 40.
Tải xuống
Đã Xuất bản
Cách trích dẫn
Số
Chuyên mục
Giấy phép
Bản quyền (c) 2023 Trần Phong
Tác phẩm này được cấp phép theo Giấy phép quốc tế Creative Commons Attribution-NonCommercial 4.0 .
Authors retain copyright and grant the journal the right of first publication with the work simultaneously licensed under a Creative Commons Attribution 4.0 International License that allows others to share the work with an acknowledgment of the work's authorship and initial publication in this journal.
Authors are able to enter into separate, additional contractual arrangements for the non-exclusive distribution of the journal's published version of the work (e.g., post it to an institutional repository, in a journal or publish it in a book), with an acknowledgment of its initial publication in this journal.